Một thảm họa tràn dầu trong lịch sử

  1. Vụ tàu “Torrey CanyonNgoài khơi nước Anh năm 1967

Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tàu chở dầu Torrey Canyon, một trong những “siêu tàu dầu” đầu tiên trên thế giới – có chiều dài bằng khoảng ba sân bóng đá và chở 121.000 tấn dầu thô Kuwati – bị mắc cạn ở Đại Tây Dương ngoài khơi Land’s End, tại mũi tây nam của nước Anh. Trong 12 ngày tiếp theo, toàn bộ hàng hóa – ước tính từ 857.600 đến 872.300 thùng – đã bị xả ra biển hoặc bị đốt cháy. Bất chấp nỗ lực lớn để ứng phó với sự cố tràn dầu, những vết dầu loang lớn đã hình thành và gây ô nhiễm các bờ biển của Anh và Pháp. Là một trong những thảm họa tàu chở dầu lớn đầu tiên trên biển, nhưng nó xảy ra vào thời điểm mà ý thức phổ biến về môi trường mới bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, cho đến nay, vụ tràn dầu của tàu Torrey vẫn là vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử Vương quốc Anh.

Một câu chuyện của người Mỹ về vụ tràn dầu xuất hiện trên tạp chí Life vào ngày 14 tháng 4 năm 1967, đã cho thấy trong một bức ảnh đồ họa dài hai trang (ở bên dưới), mức độ dày đặc và rộng của dầu đã tràn đến một số bãi biển Cornish ở Anh. Ngoài ra, theo Life, sự cố tràn dầu này đã “đe dọa cả những con sông và bến cảng nước ngọt”. Như những bức ảnh của Life đã làm rõ – và những bài khác trên báo chí Anh – thì lượng cặn dày của dầu thô tràn ra khiến việc dọn dẹp trở thành một nhiệm vụ khó khăn. Nhưng thảm họa trên biển này còn nhiều kịch tính hơn nữa.

Được đóng ban đầu vào năm 1959 tại Newport News Shipbuilding ở Newport News, Virginia với dung tải 60.000 GT, Torrey Canyon sau đó được nới rộng ra ở Nhật Bản, tăng gấp đôi kích thước của nó lên thành một siêu tàu dầu. Vào thời điểm xảy ra vụ tràn dầu, nó là con tàu buôn lớn thứ 13 đang hoạt động trên biển. Con tàu thuộc sở hữu của công ty Mỹ, Union Oil of California (sau này chịu trách nhiệm về vụ tràn dầu ở Santa Barbara vào tháng 1 năm 1969). Trong chuyến đi này, Torrey Canyon được British Petroleum, thuê định hạn, toàn bộ dầu nằm trong thân tàu của nó.

Vào tháng 2 năm 1967, Torrey Canyon, với thủy thủ đoàn 36 người Ý, đã nhận đầy tàu bằng dầu thô Kuwait, khởi hành từ Trung Đông vào ngày 19 tháng 2 năm 1967 để đến cảng đích và điểm giao hàng là Milford Haven, Wales, Vương quốc Anh, nơi có các cơ sở lọc dầu. Do kích thước lớn của nó, Torrey Canyon không thể đi qua kênh đào Suez, và vì vậy nó phải đi vòng quanh mũi phía nam của châu Phi, sau đó lên phía bắc đến quần đảo Anh.

\

Bản đồ Bản đồ hiển thị mũi phía tây nam của nước Anh

tại Land’s End và Cụm đảo Scilly ngoài khơi Đại Tây Dương

Do một số áp lực về thời gian giao hàng tại Milford Haven – vì kích thước lớn của con tàu và để cập được vào cảng Milford Haven, tàu phải đến cảng vào ngày 18 tháng 3 để đón được triều lên vào tối ngày 19 tháng 3 hoặc phải đợi thêm sáu ngày nữa.

Vì vậy, trong hành trình, khi tàu vừa đến phía nam của Land’s End và cụm đảo Scilly và lúc tàu cách bờ biển khoảng 80 hải lý, thuyền trưởng đã chọn cho tàu chạy theo tuyến đường đi qua giữa Land’s End và cụm đảo Scilly. Khu vực đó có những ngy hiểm hàng hải với các bãi cạn đã biết và đây là một cái gì đó giống như nghĩa địa cho các tàu mạo hiểm.

Như được khai báo sau đó tại một cuộc điều tra về tràn dầu, việc thuyền trưởng quyết định đi theo con đường này là một quyết định không an toàn, trong khi trước đó đã có cơ hội đi qua phía tây của cụm đảo Scilly và sau đó đi theo hướng Bắc – Đông – Bắc để tới Milford Haven.

Nhưng thách thức về hành hải mà Torrey Canyon phải đối mặt, thậm chí còn hẹp hơn so với những gì có vẻ nhìn thấy vào lúc ban đầu. Trên tuyến đường mà thuyền trưởng đã chọn giữa cụm đảo Scilly và rạn san hô nổi tiếng Seven Stones, có một rạn đá được hình thành bởi hai nhóm đá dài gần 2 dặm và rộng 1 dặm (về mặt địa chất, rạn san hô này được cho là đã từng là cây cầu đất cổ xưa nối Land’s End với Scilly Isles và nay đã bị nhấn chìm).

Trong mọi trường hợp, “đoạn đường” mà siêu tàu dầu Torrey Canyon đang cố chạy theo có rất ít ranh giới cho sai sót. Sáng ngày 18 tháng 3 năm 1967, dưới ánh sáng ban ngày, Tàu Torrey Canyon di chuyển với tốc độ khá tốt, khoảng 17 hải lý/giờ, qua khu vực đó. Tuy nhiên, trên đường đi của tàu có một số thuyền đánh cá đang giăng lưới. Thuyền trưởng đã điều chỉnh hướng đi của tàu một chút để tránh các tàu cá và việc này đã đưa tàu của ông ta đến gần rạn san hô Seven Stones hơn. Khoảng 8:45 sáng, siêu tàu dầu đã mắc cạn, va vào đá ngầm Pollard’s Rock. Khi tàu mắc cạn, các bãi đá đã xé toạc một vết rách khổng lồ dài khoảng 650 feet trên mạn tàu. Dầu thô bắt đầu tuôn ra khỏi tàu vào Đại Tây Dương. Đến tối, một vết loang dài tám hải lý đã hình thành. Vào ngày hôm sau, nó dài tới 20 hải ý và cuối cùng nó phát triển với kích thước khoảng 270 hải lý vuông.

Sau khi mắc cạn và trong nhiều ngày tiếp theo, những nỗ lực được thực hiện để kéo và làm nổi lại con tàu khổng lồ ra khỏi bãi đá ngầm đã không thành công. Hơi dầu đã tích tụ ở một số khu vực của con tàu. Trưa ngày 19 tháng 3, đã xảy ra vụ nổ ở một phần của con tàu khiến 5 người của đội cứu hộ Hà Lan bị thương và 2 người bị văng xuống biển, một người chết và một người được cứu sống. Ban đầu, thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của tàu đã ở lại trên tàu trong nỗ lực giải phóng nó khỏi rạn san hô, nhưng sau đó họ đã được đưa đến nơi an toàn sau những nỗ lực không thành công đó.

Khi dầu loang lan ra xa xác tàu, mối quan tâm đối với bờ biển của các cộng đồng ven biển khắp vùng Cornwall bắt đầu gia tăng. Khu vực này khá nổi tiếng là một khu du lịch và nghỉ dưỡng, với những bãi biển hấp dẫn, vịnh nhỏ và những ngôi làng cổ kính. Có những lo ngại rằng các bãi biển Cornwall, Devon và Dorset sẽ bị ảnh hưởng bởi các vết dầu loang đang phát triển. Cũng có lo ngại về tác động đối với các loài chim, sinh vật biển, nghề cá đại dương và động vật có vỏ ven biển.

Bức ảnh này cung cấp một số góc nhìn về độ lớn của tàu Torrey Canyon trên thực tế.

Nó cho thấy một chiếc thuyền cứu hộ nhỏ hơn ở một bên của tàu chở dầu,

đưa các thành viên thủy thủ đoàn ra khỏi con tàu đang gặp nguy hiểm để đưa họ vào bờ.

“Tờ West Briton & Royal Cornwall Gazette”

ngày 21 tháng 3 năm 1967 đăng những câu chuyện trên trang nhất về vụ tràn dầu

Các tờ báo của Anh, cả ở London và địa phương ở Cornwall, đưa tin rộng rãi về tai nạn tràn dầu. Tờ Guardian ở London đã đăng một câu chuyện ngày 20 tháng 3 năm 1967 với tiêu đề, “Cuộc đua để giữ cho dầu của tàu chở dầu không trôi vào các bãi biển Cornish,” trong đó tìm hiểu các chiến lược đang được sử dụng để ngăn chặn và phân tán dầu tràn. Trên các báo chí địa phương, các tiêu đề trên tờ The West Briton và Royal Cornwall Gazette ngày 21 tháng 3 năm 1967, bao gồm những nội dung sau: “Cornwall All Set for The Battle of the Beaches”; “Quân đội sát cánh để giúp đỡ”; ‘Quây các phao nổi để cứu Hàu’; “Trên tàu tuần tra dầu – trên biển sô cô la”. Ở Mỹ cũng vậy, New York Times ngày 21 tháng 3 năm 1967, cũng đưa tin về những lo lắng ban đầu về việc dầu tràn vào bờ, được ghi chú với một tiêu đề: “Các bước vội vàng để phân tán dầu tràn ra bờ biển của Anh,” theo sau là hai tiêu đề phụ: “Dòng chảy từ tàu chở dầu mắc cạn đến bãi biển nghỉ dưỡng” và “Hóa chất được hải quân gửi đến để ngăn chặn “sự tàn phá” các khu nghỉ dưỡng.”

Siêu tàu chở dầu Torrey Canyon đã gãy đôi trên Rạn san hô

Seven Stones Reef Bảy hòn đá, sau đó nó xả thêm dầu ra biển.

Sau khi các nỗ lực di chuyển và / hoặc dỡ dầu từ tàu Torrey Caynyon không thành công, con tàu bắt đầu bị gãy đôi (ảnh trên). Nhiều dầu hơn bị tràn ra biển. Ba vệt dầu lớn hình thành từ thời điểm tàu bị mắc cạn – vết dầu đầu tiên với khoảng 219,900 thùng; vệt thứ hai là 146.600 thùng; và vệt thứ ba gồm khoảng 366.500 thùng sau khi con tàu bị gãy đôi vào ngày 26 tháng 3. Một số vết loang đã trở nên khá lớn, một vết được ghi nhận dài 35 hải lý, rộng 15 hải lý, dày tới 10 inch.

Bản đồ xuất hiện trong ấn bản tháng 4 năm 1967 của tạp chí Life thể hiện độ lớn của vùng dầu tràn ban đầu

(sau này đã lan sang Pháp), cũng cho thấy các khu vực đánh bắt cá cần quan được tâm (màu xám),

các khu vực động vật có vỏ (o o o) và một vài bãi hàu (ô vuông màu đen).

Ngày 28 tháng 3 năm 1967, New York Times đã đăng một câu chuyện trên trang nhất về vụ tràn dầu trên tàu Torrey Canyon kèm theo một bức ảnh, bức ảnh này cho thấy chiếc tàu chở dầu đã bị tách ra làm ba phần. Dòng tiêu đề có nội dung: “Vết dầu loang quét qua các bờ biển của Anh Quốc; Big Tanker Splits. ” Câu chuyện đó cũng dẫn lời Bộ trưởng Hải quân Anh, Maurice Foley, lúc đó đang xử lý ô nhiễm từ xác tàu, nói: “Đây là vấn đề mà không quốc gia nào trên thế giới phải đối mặt trước đây”.

Sử dụng chất phân tán dầu

Ban đầu, nỗ lực ứng phó với tai nạn tràn dầu chỉ tập trung vào các phương pháp ngăn chặn, nhưng các phao quây ngăn dầu ít có tác dụng ở những vùng biển động. Sau đó, nỗ lực làm phân tán dầu bằng các chất tẩy rửa hóa học trở thành một chiến lược chính. “Chất phân tán” là các tác nhân hóa học, thường là hỗn hợp của các dung môi, chất hoạt động bề mặt và chất phụ gia. Trên thực tế, trong ngày đầu tiên xảy ra sự cố tràn dầu trên tàuTorrey Canyon, chính phủ Anh đã cho phép sử dụng các chất phân tán hóa học (và hỗn hợp chất tẩy rửa) để giúp phá vỡ và phân tán các vết dầu loang.

Hải quân Anh đã hỗ trợ vận chuyển hóa chất đến hiện trường tàu mắc cạn và trên 40 tàu đã được thuê để thực hiện hoạt động rải chất phân tán dầu. Chất phân tán cũng được sử dụng trên các bãi biển có dầu. Hơn 10.000 tấn đã được sử dụng trong nỗ lực này. Trong một số trường hợp, các thùng phuy 45gallon được lăn tới các mép trên đỉnh vách đá và đổ ra theo ý muốn để ‘xử lý’ các vũng nhỏ không thể tiếp cận được, hoặc rải theo dòng chảy ổn định từ máy bay trực thăng bay lơ lửng thấp. Tuy nhiên, những chất phân tán này là “thế hệ đầu tiên” và phần lớn là độc hại, sau này chúng được phát hiện là nhân tố chính dẫn đến cái chết của các loài chim và sinh vật biển.

Tháng 3 năm 1967. Quân đội Anh hỗ trợ đổ một lượng lớn chất phân tán hóa học xuống các khu vực bãi biển Cornwall bị dầu thô từ siêu dầu Torrey Canyon, mắc cạn trên rạn san hô Seven Stones tràn vào.

Trong trường hợp này, chất tẩy rửa/chất phân tán được sản xuất bởi British Petroleum, chủ sở hữu của số dầu tràn ra từ tàu Torrey canyon. Chất phân tán BP, được gọi là “BP 1002”, được các tàu khác nhau trên biển phun vào vết dầu loang với mục đích làm nhũ hóa và phân tán nó.

Tuy nhiên, việc sử dụng các chất phân tán không phải là không có rủi ro. Ví dụ, theo một tài khoản thì phiên bản BP, bao gồm khoảng 60% đến 70% dung môi thơm, chẳng hạn như benzen, xylen và toluen. Nồng độ của những chất tẩy rửa này từ 10 phần triệu trở xuống được biết là gây độc cấp tính đối với nhiều loài động vật có vú và thực vật biển. Những người nuôi hàu ở một số khu vực đã tới nơi để ngăn chặn việc sử dụng chất phân tán trong các khu vực biển đang nuôi hàu.

Đốt & ném bom

Trong khi đó, trở lại rạn san hô nơi Torrey Canyon bị mắc cạn và rò dầu, các biện pháp quyết liệt hơn đã sớm được áp dụng. Rõ ràng là không thể làm trôi xác tàu ra khỏi đá được, và những vết dầu loang ngày càng tăng của nó cũng không tiêu tan. Khả năng gió thổi vào bờ sẽ mang nhiều dầu hơn vào đó cũng là một mối quan tâm. Vì vậy, chính phủ Anh – sau cuộc họp ngắn của Thủ tướng Anh Harold Wilson và một số người trong nội các của ông – đã quyết định đốt cháy các vết dầu loang và con tàu bị đắm với mục tiêu đốt hết dầu và đánh đắm con tàu. Kế hoạch là đốt lửa bằng cách dùng máy bay ném bom. Ngày 28 tháng 3 năm 1967, Không quân Hoàng gia Anh bắt đầu sứ mệnh khi máy bay của họ bắt đầu thả những quả bom nặng 1.000pound xuống con tàu để giúp đánh chìm nó và làm cho dầu bốc cháy. Chiến lược ném bom đã trở thành tin tức trang nhất trên khắp nước Anh và cả ở Mỹ.

Một phần trên trang nhất của tờ New York Times ngày 29 tháng 3 năm 1967

Tờ New York Times đăng một bức ảnh trên trang nhất về vụ đánh bom và hậu quả đầy khói của nó ngày 29 tháng 3 năm 1967 với dòng tiêu đề, “Máy bay ném bom tàu bị mắc cạn ở ngoài khơi Cornwall.” Hai câu chuyện về vụ đánh bom và vụ tràn dầu cũng xuất hiện bên dưới bức ảnh – “Vùng rộng lớn của đại dương bốc cháy khi nước Anh đốt cháy dầu,” và “Tình nguyện viên làm việc để giải cứu các loài chim mắc cạn ở đại dương.” Ở London, tờ The Guardian cũng đăng một câu chuyện trên trang nhất với một bức ảnh tương tự.

Các cuộc ném bom tiếp theo được máy bay Sea Vixens và Buccaneers của Hải quân Hoàng gia thực hiện cũng như nhiều máy bay thợ săn RAF khác đã thả bom napalm – thạch dầu mỏ hóa lỏng – để đốt cháy dầu. Một máy bay trực thăng của Hải quân cũng thả bom napalm, natri clorat và nhiên liệu hàng không để giúp nhóm lửa. Các vụ ném bom tiếp tục diễn ra vào ngày hôm sau, trước khi tàu Torrey Canyon cuối cùng đã bị chìm.

Cuối cùng, sau ba ngày ném bom, 161.000 pound chất nổ đã được thả xuống chiếc tàu chở dầu bị tấn công, cùng với 16 rocket công suất lớn, 3.200 gallon bom napalm và 9.800 gallon dầu hỏa.

Trong khi đó, ở trên bờ, ảnh hưởng của tai nạn tràn dầu đang gia tăng ở một số khu vực ven biển. Tại Porth Navas, những người nuôi hàu địa phương đã hợp tác với các kỹ sư để cố gắng cứu bốn triệu con hàu khỏi bị nhiễm dầu. Họ đã dựng các phao quây, được bơm không khí và các hệ thống lưu thông nước có thể giúp bảo vệ các lớp vỏ hàu của họ khỏi dầu xâm lấn vào các khu vực thủy triều. Trong thời gian đó, biên độ thủy triều cực đoan đã xảy ra và cao tới 17 feet, làm lộ hoàn toàn các luống hàu khi thủy triều xuống, khiến chúng dễ bị dầu bám vào. Oystermen ở cửa sông Fal gần Penryn và Flushing cũng đã thử nghiệm một thiết bị phao quây và váy có thể giúp bảo vệ bãi biển của họ.

Các cộng đồng có bãi biển trên khắp Cornwall đã bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm dầu nghiêm trọng trên bờ biển của họ. Trong số những bãi biển này, tồi tệ nhất là các bãi biển Marazion và Prah Sands, nơi có bùn dầu sâu tới một foot. Máy xúc có máng lật phía trước và các thiết bị hạng nặng khác đã được sử dụng trên một số bãi biển để hớt cặn dầu dày. Báo cáo ban đầu cho biết có tới 70 dặm bãi biển của Anh bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Quần đảo channel & nước Pháp

Vụ đánh bom và đốt cháy tại khu vực xác tàu Torrey Canyon trên rạn san hô Seven Stones không làm giảm các vết dầu loang đã hình thành, sau đó chúng phủ lên các bãi biển và vịnh nhỏ của Anh ở Cornwall và ở xa hơn nữa. Trong suốt cuối tháng 3 và từ đầu đến giữa tháng 4 năm 1967, dầu cũng di chuyển ra ngoài nước Anh, đến eo biển Anh và miền bắc nước Pháp. Vào ngày 6 tháng 4, khoảng mười chín ngày sau khi Torrey Canyon mắc cạn, một vết loang lớn từ vết tràn đã đổ bộ vào bờ biển phía tây của Guernsey, một hòn đảo ở eo biển Anh và là một địa điểm du lịch và giải trí khá nổi tiếng.

Ảnh chụp mỏ đá trên đảo Guernsey ở eo biển Anh nơi chứa chất thải tràn ra từ Torrey Canyon từ hoạt động dọn dẹp bãi biển. Ảnh chụp từ năm 2010, sau đó việc làm sạch dầu thải trong mỏ đã được bắt đầu

Ưu tiên đầu tiên trên đảo Guernsey là hớt dầu từ các bãi biển của họ. Kế hoạch của họ nhanh chóng trở thành việc hút dầu – khoảng 3.000 tấn – vào các tàu chở nước thải và vận chuyển chúng đến một mỏ đá sâu trên đảo để đổ xuống đó.

. Một người nhớ lại kế hoạch của họ: “… Đó là,‘ Chúng tôi phải dọn sạch các bãi biển của mình, địa phương của chúng tôi là một điểm đến du lịch, đúng không. Có một mỏ đá, hãy đổ chúng vào đó “. Và chúng vẫn còn đó, cho đến năm 2010 hoặc lâu hơn, khi nỗ lực dọn dẹp địa điểm đó bắt đầu.

Bản đồ cho thấy các giai đoạn sau của vụ tràn dầu Torrey Canyon,

từ cuối tháng 3 đến tháng 4 năm 1967, vệt dầu di chuyển vào eo biển Anh,

đến quần đảo Channel và bờ biển phía bắc của Pháp.

Nguồn: The Guardian graphic / Metro France, World Ocean Review

Đến ngày 8 tháng 4 năm 1967, tàu quét mìn của Hải quân Pháp, Betelgeuse, một trong nhiều tàu và máy bay sau đó theo dõi vụ tràn dầu từ tàu Torrey Canyon, báo cáo rằng một nhóm vết loang đã cách bờ biển Brittany trong vòng 5 dặm. Thay vì đánh bom vết loang bằng bom napalm, hoặc đổ chất tẩy rửa lên nó, người Pháp đã sử dụng craie de Champagne dạng bột, một chất dạng phấn giúp thấm dầu hiệu quả hơn. Người Pháp được cho là đã thành công hơn trong việc ngăn chặn một lượng lớn dầu loang ở ngoài khơi đến bờ biển của họ. Tuy nhiên, vẫn có một cuộc dọn dẹp rộng rãi trên các bãi biển của Pháp dọc theo bờ biển phía bắc Brittany. Các hoạt động dọn dẹp bãi biển bằng thủ công đã được tổ chức, và ở một số địa điểm, rơm đã được sử dụng để hút dầu. Tuy nhiên, vẫn có sự ô nhiễm lặp đi lặp lại từ dầu ở Torrey Canyon trên một số bờ biển của Pháp. Vào cuối tháng 5 năm 1967, vệt dầu loang không bị phân hủy ở ngoài khơi tiếp tục đe dọa các bờ biển phía tây của Brittany, khi gió ngoài khơi đưa nhiều dầu hơn vào bờ biển. Các phao quây sau đó được dựng lên để bảo vệ các bến cảng tại Brest, Morgat, Douarnenez và Audierne và các bãi biển gần đó. Cuối cùng, người Pháp đã loại bỏ khoảng 4.200 tấn dầu thải từ các bờ biển của họ. Nhiều tình nguyện viên và quân đội Pháp đã tham gia dọn dẹp. Sự cố tràn dầu ở Pháp cũng truyền cảm hứng cho ca sĩ người Pháp Serge Gainsbourg viết bài hát, Le Torrey Canyon.

Giống như đảo Guernsey, một số dầu tràn từ bờ biển Pháp đã được thu gom và vận chuyển đến các hố chứa chất thải được đào một cách nhanh chóng. Và cũng như ở Guernsey, chỉ vài thập kỷ sau – vào tháng 9 năm 2011 và tháng 2 năm 2012, trên Ile d’Er, gần Paimpol – những hố chất thải được đào vào mùa xuân năm 1967 để lấy dầu Torrey Canyon, cuối cùng mới được làm sạch. Những chất thải đó được đốt trong một lò đốt chuyên dụng gần Le Havre.

Ảnh hưởng của dần tràn

Năm 1967, vụ tràn dầu ở tàu Torrey canyon là thảm họa vận tải biển tồi tệ nhất và tốn kém nhất trên thế giới, và cho đến nay, vẫn là vụ tràn dầu tồi tệ nhất trong lịch sử Vương quốc Anh. Vụ tràn dầu Torrey Canyon đã tạo ra một mối đe dọa mới – về quy mô – chưa từng có ở khu vực đó. Dầu tràn với khối lượng khổng lồ được rải dọc các đường bờ biển ở phía tây nam nước Anh, quần đảo Channel và Normandy của Pháp. Ít nhất 120 dặm bờ biển Cornish và 50 dặm bờ biển Pháp đã bị ô nhiễm. Theo báo cáo trên tờ The Guardian of London, các phần bờ biển của Cornwall vẫn bị đen hơn 50 năm sau vụ tràn dầu. Tác động tới động vật hoang dã và các sinh thái cũng rất lớn. BBC ghi nhận một vài năm sau đó, khi nhìn lại sự cố tràn dầu: “Các ảnh hưởng đã diễn ra trong nhiều năm, tác động lên các sinh vật từ đáy của chuỗi thức ăn – sinh vật phù du và động vật không xương sống nhỏ sống trong trầm tích, thông qua trai và trai cho đến cá, chim và động vật có vú.

Chim biển.

Vào thời điểm xảy ra thảm họa Torrey Canyon, nhiều loài chim biển đang di chuyển qua khu vực này trên đường đến địa điểm sinh sản của chúng trên các bờ biển miền nam nước Anh và Brittany. Những con chim chết và sắp chết bị dạt vào bờ biển Cornwall, quần đảo Channel và Brittany ở Pháp. Hơn 30.000 con chim bị giết và hàng chục ngàn con khác bị thương. Chim uria, hải âu rụt cổ, Cốc mào, chim lông xù, thợ lặn vĩ đại phương bắc, thợ lặn cổ họng đỏ, gannets, chim báo gấm cổ đen và skua lớn chỉ là một số loài chim bị ảnh hưởng. Các quần thể trong tương lai của một số loài phải mất hàng thập kỷ để phục hồi. Vào tháng 6 năm 2010, tờ The Guardian ở Luân Đôn ghi nhận: “Bốn mươi ba năm trôi qua, dầu thô từ hẻm núi Torrey vẫn đang giết chết động vật hoang dã hàng ngày.”

Năm 1967. Hàng ngàn chim Guillemots nằm trong số những

loài chim biển bị giết bởi vụ tràn dầu Torrey Canyon, hình một con tại một trạm cứu hộ

Trên bờ biển Breton bị ảnh hưởng của Pháp, các cặp chim sinh sản đã trở về sau cuộc di cư để làm tổ ngay khi vụ tràn dầu xảy ra. Ligue pour la Protection des Oiseaux tính toán rằng trước khi tràn dầu có 450 cặp hải âu cổ rụt nhưng chỉ còn 50 cặp sau đó. Đối với các loài uria, số lượng các cặp giảm từ 270 xuống còn 50. Theo ước tính của Hiệp hội Bảo vệ Các loài chim Hoàng gia rằng khoảng 85% chim uria ở bờ biển Pháp cũng đã bị giết. Do tỷ lệ sinh sản thấp của chúng, dân số đó phải mất vài thập kỷ để phục hồi.

Tháng 4 năm 1967. Bãi biển và vụng nhỏ ở Vịnh Whitesand,

Cornwall nơi những thùng phuy đựng chất tẩy rửa đã dùng sau đó vẫn còn vương vãi khắp khu vực

Hải cẩu và các sinh vật biển khác cũng bị ảnh hưởng. Một tài khoản từ tạp chí Life có phóng viên đã đến thăm hiện trường trong những ngày đầu xảy ra thảm họa tràn dầu, đã ghi lại: “…Cua dạt vào bờ không còn sự sống. Sao biển vì lý do nào đó tách ra làm đôi. Một bãi biển rải rác với hàng ngàn mảnh chân của sao biển, cùng với hàng ngàn con cá nhỏ.”

Một nghiên cứu năm 1978 – mười một năm sau vụ tràn dầu – đã phát hiện ra rằng một loài cua ẩn sĩ vẫn chưa xuất hiện trở lại ở một khu vực bị ảnh hưởng bởi vụ tràn dầu.

Các sinh vật biển khác trong vùng có thủy triều cũng bị ảnh hưởng, chẳng hạn như sao nhái, hải quỳ, bọ cát, vỏ sò, trai, sò, cua và rong biển.

Các nhà sinh học biển biết rằng dầu có thể giết chết 30% sinh vật sống trên bờ đá như hàu và sao nhái, nhưng dầu chỉ là một phần của vấn đề.

Các chất phân tán dầu.

Thảm họa tàu Torrey Canyon là một trong những trường hợp đầu tiên mà sự nguy hiểm của việc sử dụng chất phân tán hóa học để xử lý sự cố tràn trở nên rõ ràng. Hóa ra hỗn hợp dầu/chất phân tán dầu lại độc hại đối với môi trường hơn so với dầu.

Kết quả khám nghiệm tử thi một số con chim cho biết phổi của chúng bị sặc bọt xà phòng. Các thiệt hại khác đối với động vật hoang dã, thủy sản và sinh vật biển cũng đến từ các chất phân tán hóa học.

Tiến sĩ Gerald Boalch, một nhà sinh học biển người Anh, giải thích trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 2010 với báo The Guardian: “Các chất tẩy rửa chỉ nhìn là đẹp.

“Vào thời điểm đó, chúng tôi nghĩ rằng nó hoạt động tốt vì dầu đang biến mất.” Nhưng các thử nghiệm và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm sau đó đã tiết lộ những tác động thực tế – “và người ta nhận ra rằng nó đang làm cho dầu trở nên độc hại hơn vì nó có thể đi vào các tế bào của cơ thể”.

Chất tẩy rửa làm cho dầu bị hòa tan vào nước biển. “Nó đã phá vỡ dầu và giúp ích cho ngành du lịch…” Boalch giải thích, “nhưng khi dầu chìm từ đỉnh sóng xuống đáy biển, chúng bị vỡ thành các phần tử nhỏ hơn và bị sinh vật biển nuốt chửng.” Ông nói, ở trên bờ, hóa chất đã phá hủy địa y và các sinh vật biển khác.

Một báo cáo của Hiệp hội Sinh học Biển vào năm 1968 cho thấy việc sử dụng chất tẩy rửa của Vương quốc Anh đã dẫn đến “cái chết của một số lượng lớn các loại sinh vật ở trên bờ”. Phải mất 13-15 năm để các khu vực được xử lý phục hồi lại, lâu hơn khoảng 5 lần so với những khu vực dầu được phân tán tự nhiên bởi gió và sóng.

Vào tháng 1 năm 1968, hai cuốn sách về thảm họa tàu Torrey Canyon đã được xuất bản. Edward Cowan, người trước đó đã báo cáo về thảm họa tràn dầu cho văn phòng New York Times London, đã xuất bản “Dầu và Nước: Thảm họa tàu Torrey Canyon” (J. B. Lippincott Co., 241 trang). Cuốn sách này cũng được xuất bản ở London vào năm sau (như hình bên dưới). Một cuốn sách khác, cũng được phát hành lần đầu vào tháng 1 năm 1968, là “In The Wake of Torrey Canyon” của Richard Petrow… The Great Oil Disaster – Its Prices, Consequences and Lessons for the Future (Nhà xuất bản David McKay Co.). Một ấn bản tiếng Anh của cuốn sách này đã sử dụng tựa đề The Black Tide: In The Wake of Torrey Canyon (Hodder & Stoughton, 256 trang).

Năm 1968, Hiệp hội sinh học biển Vương quốc Anh đã công bố báo cáo của mình,

“Ô nhiễm từ tàu Torrey và sinh vật biển” (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 210 trang).

Thiệt hại & Khắc phục

Tháng 10 năm 1967, cuốn sách tại Vương quốc Anh, “The Wreck of The Torrey Canyon,”

của 2 phóng viên và một nhà tự nhiên học liên quan đến vụ tràn dầu.

Đến đầu tháng 4 năm 1967, vài tuần sau khi xảy ra vụ tràn dầu, chính phủ Anh tuyên bố ý định kiện Union Oil of California về những thiệt hại do vụ tràn dầu từ tàu Torrey Canyon gây ra. Người Pháp cũng sẽ kiện. Cả hai đều đang tìm kiếm sự đền bù cho các chi phí phát sinh trong quá trình dọn dẹp của họ. Ngoài ra, Guernsey, BP và một số cá nhân cũng đã bắt đầu các thủ tục chống lại Barracuda.

Tuy nhiên, một chuỗi phức tạp các vấn đề của các chủ tàu và các bên chịu trách nhiệm, cũng như các vấn đề về quyền tài phán (vùng biển quốc tế so với quốc gia-dân tộc) và nhiều vấn đề pháp lý khác, sẽ là một cuộc so tài đầy thách thức.

Trên danh nghĩa, tàu chở dầu Torrey Canyon thuộc sở hữu của Barracuda Tanker Corporation, đôi khi được quảng cáo là công ty con của Union Oil Co. – ít nhiều là một loại “công ty vỏ bọc”. Barracuda là sản phẩm của Dillon Read & Co., chủ ngân hàng đầu tư ở New York. Trong quá trình sáng tạo đó, Dillon Read đã sử dụng tiền do Nhà sản xuất Trust cung cấp. Được biết, các cổ đông của Barracuda đã bỏ ra 20.000 đô la và được thông báo rằng họ sẽ thu được 1 triệu đô la lợi nhuận trong 20 năm, chỉ phải chịu thuế lãi vốn.

Trong khi đó, địa chỉ chính thức của Barracuda là ở Hamilton, Bermuda. Bản thân tàu này lại được đăng ký tại Liberia – một cơ chế còn được gọi là “cờ thuận tiện”, được một số người coi là hành vi xúc phạm đối với việc tránh trách nhiệm pháp lý và quy định và thuế “mẫu số chung thấp nhất”. Theo truyền thống, một con tàu có nghĩa vụ tuân theo luật của quốc gia tàu mang cờ, trong khi các quốc gia ven biển và cảng thường không thể áp đặt luật của họ đối với tàu nước ngoài. Bằng cách được đăng ký tại Liberia, chủ tàu chở dầu không chỉ thoát khỏi các tiêu chuẩn môi trường và pháp lý thường khắt khe hơn có thể thấy ở các quốc gia ven biển hoặc cảng, mà còn giảm hoặc trốn một số loại thuế nhất định.

Trong mọi trường hợp, vào giữa tháng 7 năm 1967, bốn tháng sau vụ tràn dầu, Chính phủ Anh đã có thể tống đạt một văn bản chống lại các chủ tàu bằng cách “bắt giữ” tàu cùng chủ của Torrey Canyon, Tàu Lake Palourde ở Singapore. Vào thời điểm đó, người Anh tuyên khiếu nại số tiền 8,4 triệu đô la cho phần việc dọn dẹp thảm họa tràn dầu của họ và đòi hỏi một khoản thế chấp đối với con tàu cùng chủ này bằng với số tiền đó nếu nó muốn được thả. Người Pháp cũng đưa ra yêu sách của họ đối với con tàu này muộn hơn một chút, vào tháng 4 năm 1968, đã bắt giữ tàu Lake Palourde ở Rotterdam.

Trong khi đó, Union Oil đã đệ đơn vào tháng 9 năm 1967 tại Tòa án Liên bang ở New York để giới hạn trách nhiệm pháp lý của họ. Theo pháp luật của Hoa Kỳ vào thời điểm đó, chủ sở hữu của một con tàu không thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhiều hơn giá trị cứu hộ được của con tàu – mà đối với Torrey Canyon bị đắm hiện đang nằm dưới đáy đại dương tại Seven Stones Reef, thì giá trị này là bằng không, trừ một chiếc xuồng cứu sinh còn sót lại có giá $50.

Nhưng Tòa phúc thẩm cũng cho rằng khái niệm giới hạn trách nhiệm chỉ áp dụng cho chủ tàu – công ty Barracuda – chứ không phải với người thuê tàu là Union Oil. Lúc đó, Union Oil đã nghĩ ra một hành động khôn ngoan hơn là có thể tìm kiếm các cuộc đàm phán.

Đến tháng 9 năm 1968, người Anh đã sẵn sàng đưa ra xét xử, nhưng quá trình đó cũng có rủi ro, liên quan đến các vấn đề cực kỳ phức tạp về cách ước tính thiệt hại, luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng và liệu luật quốc tế có quy định các tàu chở dầu phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do ô nhiễm hay không.

Người Anh cũng cáo buộc rằng các luật áp dụng cho các con tàu như Torrey Canyon đã lỗi thời nghiêm trọng, và vào tháng 4 năm 1967, họ đã thúc đẩy Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) triệu tập một phiên họp đặc biệt để thảo luận về sự phân nhánh pháp lý của tai nạn tràn dầu trên biển và quy định mới.

Mẩu tin của New York Times news clip, Ngày 12 tháng 11 năm 1969.

Trong khi đó, về vấn đề thiệt hại do thảm họa tràn dầu từ tàu Torrey Canyon, hai năm sau khi Anh, Pháp và Union Oil vận động pháp lý, các bên đã bắt đầu đàm phán. Đến tháng 11 năm 1969, chủ sở hữu người Mỹ của tàu Torrey Canyon đã trả 7,2 triệu đô la cho Anh và Pháp trong một vụ dàn xếp ngoài tòa án đối với các khiếu nại về ô nhiễm dầu, 70% trong số đó được bảo hiểm chi trả.

Các nhà môi giới bảo hiểm của Lloyd cho biết họ tin rằng đây là vụ dàn xếp lớn nhất trong lịch sử hàng hải đối với các khiếu nại về dầu mỏ. Tuy nhiên, số tiền này chỉ là một phần của tất cả các chi phí liên quan đến thảm họa tràn dầu từ tàu Torrey Canyon. Hai chính phủ đã kiện các chủ tàu chở dầu với số tiền 22 triệu USD. Nhưng các chủ tàu tuyên bố rằng theo luật hàng hải, họ chỉ chịu trách nhiệm pháp lý đối với một giá trị nhất định trên mỗi tấn trọng tải của con tàu và chỉ có thể lên tới 4,2 triệu USD.

Số tiền dàn xếp 7,2 triệu đô la được chia đều cho hai quốc gia, mỗi bên nhận được 3,6 triệu đô la. Các chủ tàu cũng đồng ý dành ra 60.000 đô la khác để bồi thường bất kỳ yêu cầu bồi thường nào từ những người chưa được chính phủ bồi hoàn cho những tổn thất của họ. Trong trường hợp này, số tiền bồi thường cho hai quốc gia là không thỏa đáng, chỉ bằng một phần chi phí dọn dẹp thực tế và những thiệt hại đã gây ra, và không bao gồm thiệt hại cho ngư dân, chủ sở hữu khu nghỉ dưỡng và các lợi ích ven biển khác – cũng không thỏa đáng theo cách tính toán phức tạp của thiệt hại tài nguyên thiên nhiên lúc đó.

Về phần mình, Union Oil cũng đang phải đối mặt với những tai ương tràn dầu khác và các cuộc chiến pháp lý vì vụ nổ giàn khoan dầu ngoài khơi vào tháng 1 năm 1969 của họ ở kênh Santa Barbara của California.

Cuối cùng, vụ tai nạn Torrey Canyon đã dẫn đến những thay đổi về luật pháp vận tải biển quốc tế, quy trách nhiệm nghiêm ngặt của chủ tàu và giúp thông qua Công ước quốc tế năm 1973 về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra.

——————————————

Chia sẻ:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *